Dấu Chân Online 13: Men say mùa xuân cao nguyên đá
2011-07-08 17:39
Tác giả: Giọng đọc: Radio Online Team
Trở lại Cao nguyên đá trong những ngày cuối năm với đủ cung bậc cảm xúc. Đầu tiên là cảm giác vô cùng mệt mỏi và cả bực mình. Mệt vì chặng đường Hà Nội - Đồng Văn gần 500 cây số với một bên là núi cao, một bên là vực thẳm hun hút. Đầu tôi, người tôi lắc la lắc lư hết bên nọ đến bên kia suốt hơn 10 tiếng đồng hồ với bao khúc quanh mà dân xế chuyên nghiệp vẫn gọi là “cua tay áo”. Bực vì bị bạn “bỏ rơi” giữa miền rừng chỉ vì các bạn “phải quay về Hà Nội họp gấp”. Nhưng trong cái rủi có cái may, vì bị bỏ lại nên tôi có dịp sống với Đồng Văn, với Cao nguyên đá trọn vẹn một tuần. Được thoả sức đi, viết, chụp và … say. Say cảnh, say tình, say những điệu khèn của các chàng trai bản địa và say nữa, thứ rượu Ngô sóng sánh tràn đầy của những phiên chợ miền Sơn cước.
Dù đã có thời gian làm việc khá dài ở Hà Giang, dù đã “đi mòn chân” trên con đường Hạnh Phúc Mèo Vạc - Đồng Văn, “ăn mòn bát” ở Đồn Biên phòng Lũng Cú nhưng đó là những chuyến công tác dài ngày cùng lãnh đạo, những chuyến đi làm hướng dẫn viên du lịch bất đắc dĩ, những cuộc giám sát, tiếp xúc cử tri với bộn bề văn bản, giấy tờ, công việc. Tôi chẳng có chút thời gian nào cho riêng mình, chẳng có chút thời gian nào “sống” với Đồng Văn yêu thương, nơi cực bắc thiêng liêng của tổ quốc một ngày, trọn vẹn.
Sau cuộc trò truyện với anh Nguyễn Đình Dích- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, được biêt Năm 2009, Đồng Văn chính thức đón nhận bằng xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với Phố Cổ Đồng Văn, Cột Cờ Lũng Cú đồng thời Cao nguyên đá đang trong giai đoạn trình UNESCO công nhận là công viên địa chất quốc tế. Tôi quyết định ở lại khám phá Đồng Văn, theo cách của riêng mình.
Không ngồi trên “con ngựa” bốn bánh đắt tiền bóng loáng. Không cả những thứ đồ lỉnh kỉnh mang từ miền xuôi lên miền ngược phòng đói, rét. Tôi đến các bản làng xa tít tắp sau những dãy núi tai mèo trùng trùng lớp lớp bằng chiếc xe máy cũ mượn của anh Bí thư Đảng uỷ xã Sủng Trái và đôi giầy vải cùng chiếc khăn dân tộc mua ở chợ huyện. Một túi kẹo cho trẻ con gặp trên đường. Một vài chai nước- thứ khan hiếm nhất ở vùng cao. Tôi thả mình vào trời mây cùng đá núi. Chiếc máy ảnh không khi nào rời tay, cứ bấm bấm liên hồi. Có lẽ trời thương đồng bào vùng cao thiếu nắng, thiếu sáng (và cả thương tôi nữa- tôi thầm nhủ thế) nên đã cho mặt trời đến bản suốt cả tuần, dù nơi ngút ngàn đá núi này vào mùa Đông, chỉ có thể nhìn thấy mặt trời khi chính ngọ. Mùa Đông ở Đồng Văn thường đến sớm và kết thúc cũng muộn hơn. Đó cũng là những ngày đồng bào các dân tộc nơi đây vô cùng cực khổ. Cái đói, cái nghèo, cái khát cứ triền miên, hết tháng này qua tháng khác Không phải vì dân lười lao động hay ỷ lại nhà nước mà chỉ đơn giản vì khí hậu quá khắc nghiệt. Địa hình Núi non hiểm trở. Đồng Văn có đến 3/4 diện tích tự nhiên là đá, những dãy núi tai mèo chồng chồng lớp lớp. "Cao nguyên đá"- Khách du lịch vẫn truyền nhau thông tin về vùng đất này như một điểm đến đầy hấp dẫn. Nhưng sau đỉnh dốc chín khoanh, sau những hàng sa mộc cao vút trời sừng sững bên dinh thự họ Vương, sau những cung đường uốn lượn trong mây cùng muôn màu hoa khoe sắc mỗi mùa: Hoà Đào, Mận, Lê khi Đông qua Xuân đến, Hoa Bạc Hà, hoa Mua nở tím cả triền đồi mùa Hạ, hoa Tam giác mạch mùa Thu, Hoa Cải vàng rực cánh đồng mùa Đông cùng vô vàn loài hoa dại mà tôi vẫn gọi là hoa không tên có thể bắt gặp ở bất kỳ đâu trên sườn dốc hay giữa lô nhô đá tai mèo, là cuộc sống vô cùng khó khăn của người dân nơi đây. Nơi mà có đến 5, 6 tháng trong một năm thiếu nước. Nguồn nước cạn kiệt. Rừng không sống nổi vì thiếu đất. Những núi đá tai mèo xám xịt, lạnh lẽo được phủ bởi sương mù, sương muối suốt cả mùa Đông. Nhiệt độ nhiều hôm xuống dưới 0. Trẻ con lớn lên theo kiểu phát triển tự nhiên. Vượt qua được thì sống, sống dai, sống khoẻ. Không vựơt qua được thì cứ thế ra đi, hết đứa này lại có đứa khác, cứ tự nhiên như vậy dù cán bộ có vận động sinh đẻ kế hoạch hay cái chữ đã về đến từng thôn bản từ rất lâu rồi.
Với người dân Đồng Văn, lương thực chủ yếu là Mèn Mén (Ngô xay) vì họ thiếu đất, không có đất để trồng Lúa hay hoa màu. Để có Ngô, đồng bào phải gùi từng gùi đất bỏ vào các hốc đá. Thiếu thốn, khó khăn, đói khổ, đủ đường...
Một tuần, tôi không thể đi hết những bản làng xa tít vắt ngang lưng chừng núi của Đồng Văn, không kịp xem những điệu nhảy của các thiếu nữ Lô Lô bên trống đồng cổ, quanh đống lửa. Lỡ hẹn với buổi sinh hoạt văn hoá thôn Thèn Ván, lỡ cả chợ phiên Lũng Phìn, không đến trường học Vần Chải, Sủng Trái thăm lại thầy cô giáo cùng các em học sinh nội trú dân nuôi mà mấy tháng trước đó chúng tôi vừa thực hiện chương trình “Đêm hội trăng rằm” như đã hứa nhưng tôi đã đi, đã đến, đã có được, rất nhiều…
Cuộc gặp các đồng chí bộ đội biên phòng trong trạm tiền tiêu đồn biên phòng Lũng Cú cho tôi hiểu thêm về những khó khăn, vất vả của các chiến sỹ biên phòng trong việc “giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia”, về tình quân dân gắn bó keo sơn dù trong thời chiến hay thời bình. Về phòng khám quân dân y kết hợp mà mỗi khi ốm, người dân chỉ nhất nhất đến “Bác sỹ bộ đội” chứ không chịu đi bệnh viện. Về lá cờ tổ quốc 54m2 phần phật tung bay trên đỉnh núi Rồng mỗi ngày. Thấy thêm yêu quê hương đất nước bội phần.
Mỗi chiều, tôi lang thang khắp các bản làng, từ Phố Bảng, Sủng Là, Lũng Cẩm, Thài Phìn Tủng, Sà Phìn, Tả Phìn, Hố Quáng Phìn… Những cái tên mà trước đây tôi vẫn tếu táo đùa vui nói rằng “tên gì mà lạ, đọc đau hết cả mồm” ấy giờ quá đỗi thân quen. Ống kính của tôi lướt trên từng góc nhà rêu phong cổ kính, trên những bưc tường trình đất lâu năm với nhiều vết nứt, lướt qua ngói máng thâm nâu, qua bờ rào đá, qua lùm lùm những gốc ngô khô xếp trên nương đồi, xem lẫn giữa những dãy đá tai mèo nhọn hoắt, qua lô nhô hàng Sa mộc, qua những con bò khát nước kêu những tiếng ò ò kéo dài vọng vào vách núi, cả tiếng lục lạc của đàn Dê lẫn trong chiều khói sương bảng lảng. Những mẹ già đứng co ro trong giá rét hướng mắt về xa xăm, những người phụ nữ mang gùi nặng trên vai, tay luôn se sợi mà bước chân nhanh thoăn thoắt, những em bé “nuôi Bò trên lưng’ với gánh cỏ trĩu nặng. Trên đường đến các bản, tôi bắt gặp hình ảnh từ người già, người trẻ, bất kể gái, trai, các em học sinh cấp 2, cấp 3 đến cả những bé 5- 7 tuổi đi bộ hơn 10 cây số, vượt núi, vượt đèo gùi từng can nước về bản. Mũi tôi chợt cay cay khi biết các thầy cô giáo, học sinh cùng toàn thể đồng bào các dân tộc Sủng Trái nói riêng và Cao nguyên Đồng Văn nói chung đang ngày ngày khát nước. “Mùa này, một xe nước về đến Sủng Trái giá 2 triệu đồng, học sinh sắp phải nghỉ học vì thiếu nước”- Anh Chiểu- Bí thư Đảng uỷ xã Sủng Trái buồn bã thở dài – “Biết làm sao khi các nguồn nước cạn kiệt. Toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh mỗi người mỗi ngày có chưa đầy 2 lít nước. Mùa Đông có khi cả tháng mới tắm một lần”. Tôi thầm liên tưởng đến đầy rẫy, thừa mứa kia những cuộc chơi cùng biết bao bữa tiệc xa hoa hào nhoáng nơi phố thị…
Buổi tối, tôi thích đi bộ quanh phố cổ. Không phải ngày rằm, không có nhiều đèn lồng đỏ treo sáng rực trước mỗi hiên nhà, cũng chẳng có những đêm văn nghệ của các diễn viên không chuyên đến từ những bản làng xa tít tắp nhưng phố cổ Đồng Văn vẫn giữ được những nét riêng, rất riêng của góc phố hàng trăn năm tuổi. Những dãy nhà cổ kính chạy theo hình vòng cung dựa lưng vào vách núi sừng sững. Một quán café - điểm hẹn lý tưởng của du khách khi đến với Đồng Văn với ánh đèn dầu hiu hắt chỉ đủ soi rõ mặt người. Tôi chọn cho mình một chỗ gần cửa sổ, ngồi hàng giờ quan sát khách thập phương đến uống café trên cao nguyên đá. Những ngày thường, quán không có các chàng trai, cô gái người bản địa đến hát giao duyên nhưng tôi vẫn nghe lẩn quất đâu đây tiếng khèn gọi bạn, tiếng cô gái Mông cười rúc rích lẫn trong tiếng nhạc khe khẽ phát ra từ chiếc loa nơi góc quán.
Lên Đồng Văn không thể thiếu những buổi chợ phiên. Bởi chợ không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế mà còn là nơi giao lưu sinh hoạt văn hoá tinh thần, là ngày hội của đồng bào các dân tộc quanh vùng, là nơi gặp gỡ của các chàng trai, cô gái, nơi bè bạn lâu ngày gặp lại, uống với nhau chén rượu, ăn cùng nhau bát Thắng cố và kể chuyện vui buồn, nơi giao lưu trao đổi hàng hoá, dù chỉ là một con gà, con lợn nhỏ cắp nách, một vài mớ rau cải cay, cũng có thể mang đến chợ. Nhờ đồng chí Lưu Sần Vạn, chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, một người hiểu và nhớ rõ những ngày chợ ở các xã: Ngày Dần, Thân: Chợ Lũng Phìn, ngày Thìn, Tuất: Chợ Phố Cáo, ngày Tý, Ngọ: Chợ Phó Bảng, ngày Tỵ, Hợi: Chợ Sà Phìn, Thứ sáu: chợ Lũng Cú, thứ bẩy: Ma Lé, chủ nhật: Chợ huyện Đồng Văn. Tôi đã có may mắn được đi những phiên chợ vùng cao, lại say, thứ men say mà tôi không thể gọi bằng lời: Say chợ. Say sắc hoa văn của những bộ váy áo, khăn sặc sỡ đủ mầu. Say những đôi má ửng hồng cùng ánh nhìn lúng liếng của các cô gái Mông, Dao, Tày, Giấy, say tiếng khèn mời gọi thiết tha của chàng trai người Mông đang đợi bạn. Say đến ngả nghiêng cái tình người của miền sơn cước. Say, không phải vì Rượu. Lần đầu tiên tôi say thế và cứ muốn say, say mãi thế.
Đến chợ, tôi còn được tham gia các trò chơi dân gian của đồng bào: cắt Mía, đánh Sảng, đánh Yến…
Những ngày cuối năm, Cao nguyên đẹp đến lạ thường. Trên khắp các ngả đường: Từ Sủng Là, Phố Cáo, Phố Bảng, Tả Phìn, Sà Phìn, Ma Lé…hoa Mận, hoa Lê, hoa Đào đã bắt đầu khoe sắc. Có thể nói hiếm nơi nào Hoa Đào đẹp như Đồng Văn, những cây đào cổ thụ gốc xù xì, đầy rêu mốc cho những bông hoa to, mầu đậm và đẹp hơn Đào nơi khác rất nhiều. Tôi nhận thấy nơi đây các loài hoa đều rực rỡ hơn, về mầu sắc. Không biết có phải do thiên nhiên ưu đãi cho Đồng Văn khí hậu lạnh bốn mùa hay vì giữa ngút ngàn đá xám, những bông hoa kia như rực rỡ thêm để tô điểm cho bức tranh Cao nguyên thêm đẹp và mê đắm lòng người.
Một mùa Xuân mới đang về. Người dân Đồng Văn tất bật chuẩn bị đón tết. Tết vùng cao thường đến sớm hơn và kết thúc muộn hơn miền xuôi. Bắt đầu từ tháng 12 âm lịch, nhà nhà con cháu tề tựu đông đủ. Người già lau dọn nhà, dán giấy đỏ lên ban thờ và trước cửa, dán giấy bản lên các đồ vật. Phụ nữ bận rộn chuẩn bị xay Ngô, làm bánh Ngô, Bánh trôi, bánh nếp nhân hạt rau Rền hay hạt Tam giác mạch. Nam giới giúp nhau mổ Lợn, mổ Dê. Trẻ nhỏ xúng xính khoe những bộ áo quần mới vừa được cha mẹ mua ngoài chợ. Một số gia đình vẫn giữ được nghề dệt lanh truyền thống, các bà, các mẹ đã truyền lại cho con cháu dệt nên những chiếc váy áo đủ mầu diện du xuân. Khắp các bản làng vang tiếng lợn kêu eng éc. Nhiều gia đình dành dụm cả năm nuôi duy nhất một con lợn mổ Tết. Lợn thường được mổ trước tết khoảng 1 tháng. Đầu Lợn làm lễ cúng Giàng. Lòng Lợn nấu Thắng cố đãi bà con làng xóm. Thịt được xả ra từng miếng nhỏ, dài, treo trên gác bếp. Thịt Lợn hun khói của Đồng Văn đã thành món khoái khẩu của biết bao người.
Tôi đi trong gió rét Cao nguyên nhưng thấy lòng thật ấm, thật ấm. Không biết có phải vì: “Tiếng Khèn ai lúc bổng lúc trầm/ Da diết quá cho lòng bối rối” hay vì sức cuốn hút đến lạ kỳ của Đồng Văn- điểm hẹn nơi cực Bắc này mà bỗng dưng tôi ước được trở về thời nông nổi, được có một ngày rũ bỏ những hào nhoáng thị thành, gạt mọi âu lo, quên đi phiền muộn, tôi sẽ về sống với Đồng Văn, với Cao nguyên đá…
Hà Nội - Đồng Văn, những ngày cuối năm 2009
Hà Linh Ngọc
Thông tin về địa danh: Hà Giang |
Phản hồi của độc giả
Xem thêm
Buông bỏ là lựa chọn tốt nhất cho chúng ta
Những đau đớn hằn vết trong trái tim anh đều do em cả. Em không mong mình sẽ là người khâu vá lỗ hỏng ấy, chỉ mong anh hãy quên em và đừng yêu em thêm nữa. Tình yêu này không nên tồn tại. Buông bỏ là lựa chọn tốt nhất cho cả hai chúng ta.
Trả Lại Anh Cho Cô Gái Khác | Radio Tâm Sự
Sau chia tay, có ai không bi luỵ lẫn tổn thương… chẳng qua chúng ta chỉ khác nhau ở thời gian chữa lành mà thôi. Có người cần một tháng, có người cần một năm, có người cần thời gian đủ lâu và có kẻ chấp nhận dùng cả một đời để học cách quên đi một người.
Người cũ chỉ nên nghĩ, không nên nhớ | Blog Radio 909
Ngày hôm đó chúng ta đã nói sẽ luôn nhớ tới nhau, sẽ giữ trọn vẹn trong tim mối tình của năm tháng ấy. Nhưng anh biết không, mỗi người chúng ta ai rồi cũng đều khác, lời hứa năm đó cũng chỉ là tên gọi khác của lời tạm biệt mà thôi.
Vì em là một món quà - Phần 2 | Blog Radio 908
Dây xích sắt trượt dài trên thanh chắn cửa, rít lên một tràng âm thanh chói tai, kết thúc bằng tiếng đáp đất nặng trịch. Trời lặng gió, áng mây vắt ngang qua ngọn cây, trong đêm tối không trăng không sao, chiếc lồng đèn cũ phủ một lớp bụi mỏng
Vì em là một món quà - Phần 1 | Blog Radio 907
Mưa rơi, làm hình bóng anh trong mắt cô mờ đi, gương mặt điển trai sau màn mưa trắng chẳng rõ đang vui hay buồn. Mưa vẫn không ngừng xối lên thân ảnh liu xiu của anh, lớp áo sơ mi trắng dính vào da lộ ra vết sẹo dài chạy dọc theo cánh tay khẳng khiu.
Bạn đã đánh đổi điều gì để trưởng thành? | Blog Radio 906
Bạn chính là chủ nhân của cuộc đời mình. Tương lai ra sao, do bạn định đoạt. Đừng để năm tháng trôi qua, trong bạn chỉ toàn là tiếc nuối.”
Điều em muốn là bình yên và tĩnh lặng | Blog Radio 905
Đôi khi, sự ra đi của người khác là lí do để ta nhìn lại mình. Nhìn lại những gì mà bản thân đã cư xử. Có phải vì ta chưa đủ trưởng thành? Có phải vì ta vẫn còn quá cảm xúc và bi kịch hoá mọi thứ?
Nếu bạn độc thân, hãy cứ tận hưởng điều đó | Blog Radio 904
Nếu bạn độc thân, hãy tận hưởng điều đó. Độc thân không có nghĩa là chưa đủ tốt để yêu. Độc thân nghĩa là chưa có ai đủ tốt để được bạn yêu.
Đi tìm phiên bản tốt nhất của chính mình | Blog Radio 903
Muốn ngắm bình minh, phải dậy thật sớm. Muốn tạm biệt ngày tàn, phải vẫy chào hoàng hôn. Hạnh phúc của mình nên tự mình nắm lấy...
Trái tim em có nhiều vết xước | Blog Radio 902
Một giấc mơ dang dở dấy lên trong lòng tôi một sự hiếu kỳ với dáng vẻ của hạnh phúc. Nếu bước qua lằn ranh giữa quá khứ và hiện tại, tôi sẽ thấy được điều, có phải kết cục sẽ vẹn tròn hơn không.