Phát thanh xúc cảm của bạn !

Tô Đông Pha – tài hoa không chỉ ở văn chuơng

2022-08-31 01:20

Tác giả: khuê nguyễn


blogradio.vn - “Vừa là một thi sĩ lại vừa là một kĩ sư, mơ mộng mà lại thực tế, ưa cảnh nhàn tản mà lại thích hoạt động, theo Khổng mà cũng quí cả Phật cả Lão, tâm hồn ông quả thực phong phú”

***

Sách cũ, nhưng thấy rất hay nên ghi nhớ vài dòng và chia sẻ để độc giả tìm đọc:  “Tô Đông Pha” của cụ Nguyễn Hiến Lê  xuất bản năm 2002 bởi Nhà xuất bản Văn hóa thông tin

Đọc lời giới thiệu xong  ta sẽ không thể đặt sách xuống được nữa: Suốt bảy thế kỉ đời Đường Tống, Trung Hoa có tám văn hào lớn nhất (bát đại gia) trong đó có ba cha con Tô Tuân, Tô Thức (Đông Pha) Tô Triệt và Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tăng Củng. Trong họ, người có tài nhất về cổ văn lẫn thơ phú là Tô Thức.                                                                                                    

Âu Dương Tu kể rằng: Hôm nào mà nhận được một bài văn hay một bài thơ của ông thì vui sướng suốt ngày, còn Vua Thân Tôn đương bữa ngự thiện mà đưa đôi đũa lên quên gắp món ăn thì ai cũng đoán ngay được là mải đọc văn của Tô Thức. Đi thi, bài văn của hai anh em Đông Pha và Tử Do được vua Nhân Tôn đọc và khen tấm tắc: “Hôm nay trẫm đã tìm được hai tể tướng sau này cho các con của trẫm”. Sau này Triết Tôn lên ngôi vua lúc 9 tuổi đã dùng Tô Đông Pha vì những lời khen này của Nhân Tôn. (tr 126)

Thơ văn ông nổi tiếng, và cuộc đời của ông cũng rất nổi tiếng…

Một người tài hoa tột bậc như ông mà thăng trầm lưu lạc khó lường. Chỉ có hai chữ Rồng nấp trong một bài thơ mà suýt bay đầu. (Phải là Phi long – rồng bay lên trời chứ sao lại nấp dưới đất – mưu lật đổ ngai vàng đây.) Tả hoa mẫu đơn có nhiều màu sắc khác nhau bị coi là ám chỉ triều đình đặt ra bao nhiêu thứ thuế mới. Đông Pha bị buộc tội phản loạn, họ bắt Đông Pha và những người ngâm vịnh giao thiệp với Đông Pha. Ông bị nhốt khám từ 18/8 đến 30/12. Sau được giải oan, về đến nhà ông ngâm liền hai bài thơ tự liên tưởng đến tái ông thất mã. (tr 97)

Trong bốn năm 1086 đến 1089, là ngọn cờ đầu của đảng Nguyên Hựu, ông đã đưa ra những chủ trương rất tiến bộ: Mở đường ngôn luận, xóa nợ cho dân và mạnh mẽ vạch tội quan tham che mắt triều đình. Ông bị nhiều sớ tấu chỉ trích, Tuyên Nhân Hậu đọc hết nhưng không xử, ông xin đi xa và được bổ đi Hàng Châu, coi sáu tỉnh miền đó. (tr 132)

Đọc cuốn sách này, có lẽ một trong những đoạn sảng khoái nhất là chương thứ 9 - Một vị thái thú yêu dân - kể chuyện Tô Đông Pha về Hàng Châu – nơi ông coi như quê hương thứ nhì của mình - làm thái thú. Với quyền hành rất lớn, ông đã làm được nhiều việc trọng đại cho vùng đất và nhân dân nơi này. Nó cho thấy ông không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa mà còn là một viên quan tài giỏi có tầm nhìn xa rộng, lại biết chăm lo cho đời sống nhân dân, đem lợi ích nhiều mặt đến cho nhân dân.

Ông thấy Hàng Châu có nửa triệu dân mà không có nhà thương công cộng nên cất một dưỡng đường, giao cho một đạo sĩ cai quản, trong ba năm săn sóc được một ngàn bệnh nhân. Ông lại sai chép vài đơn thuốc công hiệu mà rẻ tiền dán ở các công viên, công trường để dân chúng sao lại mà dùng khi bị những bệnh thông thường.

Mấy con kênh giáp biển, bùn đóng lại dăm ba năm phải vét một lần tốn công tốn của. Ông cho ngăn nước khi thủy triều lên và tháo nước đi khi thủy triều hạ. Sức nước cuốn mạnh khiến bùn không lắng đọng, kênh không cạn nữa.

Dân thiếu nước ngọt ông cho làm đường ống dẫn nước từ Tây Hồ về đồng thơi sửa sang cảnh Tây Hồ cho thêm đẹp. Đời Đường, Bạch Cư Dị khi làm thái thú ở đây, đã cho xây một con đê chia hồ làm hai phần. Tô Thái thú lại cho đắp một con đê nữa dài khoảng ba cây số. Hai bờ đê trồng liễu và phù dung, dưới nước trồng sen, cứ cách một quãng thì bắc một chiếc cầu cong cong. Người ta gọi hai con đê đó là Bạch đê và Tô đê, đến nay vẫn còn. Rồi ông thấy bèo sinh sôi nhanh quá nên lệnh các nhà ở bờ hồ trông ấu, vừa có lợi cho họ vừa lợi cho thị trấn vì hễ trồng ấu thì tự nhiên phải diệt bèo. Nhờ thế, cảnh Tây Hồ đẹp lên bội phần và dân chúng xây một sinh từ treo một bức chân dung của ông để ngày ngày tưởng niệm.

Lại có những chuyện nho nhỏ nhưng rất thú vị. Một người bán quạt bị thưa kiện vì thiếu nợ. Ông bảo đem một chồng quạt đến và cầm bút vẽ trúc vẽ núi đề chữ vào quạt rồi bảo người đó đem bán lấy tiền trả nợ. Tranh và chữ Tô Đông Pha vốn rất nổi tiếng, anh kia sướng quá ôm chồng quạt ra ngoài reo lớn Quan thái thú vẽ lên quạt cho. Trong nháy mắt số quạt đã bán hết, mỗi chiếc giá một ngàn đồng tiền.

Cuối năm 1092 ông được về triều, mùa thu năm sau bà Tô mất, tháng chín năm ấy Tuyên Nhân Hậu mất, “chính cái chết thứ nhì này mới làm cho cuộc đời về già của Tô Đông Pha long đong khổ vô ngần”. (tr 138)

Triết Tôn lên ngôi dùng Chương Đôn thực hiện một cuộc thanh trừng có một không hai trong lịch sử Trung Quốc: 830 quan lại bị xử, mấy chục người tự tử để khỏi bị nhục, đục hàng trăm tấm bia khắc tên 309 người trong đảng Nguyên Hựu mà người đứng đầu là Tô Đông Pha dựng khắp nơi, hiện nay trên các đỉnh núi cheo leo còn được vài tấm. Những người có tên, hậu duệ mấy đời không được làm quan, hoàng thất không dược phép kết thông gia với họ… (tr 142)

Trên đường đi đày từ Cực Bắc đến Cực Nam Trung Hoa, Tô Đông Pha liên tục nhận lệnh giáng chức. Dù vậy, làm được gì cho dân là ông làm. Ông có óc xây cất, khi ở Huệ Châu ông đã góp cả công lẫn của xây hai cái cầu, đắp một nghĩa địa gom những mồ mả vô thừa nhận vào rồi soạn một bài văn để tế các âm hồn. Ông chỉ cho dân làm một dụng cụ như cái thuyền có thể ngồi mà cấy được đỡ nhọc mệt. Ông đề nghị lập dưỡng đường như ở Hàng Châu, ông làm đường dẫn nước từ núi xuống và chỉ cách làm hồ chứa nước. “Vừa là một thi sĩ lại vừa là một kĩ sư, mơ mộng mà lại thực tế, ưa cảnh nhàn tản mà lại thích hoạt động, theo Khổng mà cũng quí cả Phật cả Lão, tâm hồn ông quả thực phong phú”. (tr 146)

Khi ấy, Chương Đôn đọc thơ ông thấy vẫn còn “sướng quá” nên đày ông đi Hải nam. Ở đó, cuộc sống rất khổ cực nhưng ông không cô độc – như bất kì khi ông ở đâu. Ngày nào ông cũng có khách, thích nói và thích nghe nói chuyên. Người dân bình dị ngại ngùng không dám thì ông nhiệt tình bảo kể chuyện ma, biết chuyện gì kể cho tôi nghe chuyện đó.

Tháng giêng năm 1100, Triết Tôn băng, Thái hậu thính chính tha hết tội cho Nguyên Hựu. Tô Đông Pha sáu mươi tư tuổi vượt mấy ngàn cây số từ Nam về Bắc. Ông không oán hận Chương Đôn, khi ông ta bị đi đày, ông buồn cả một buổi (ông nghĩ gì nhỉ, có phải ông nghĩ đến sự lên xuống bất thường của mỗi người trong kiếp nhân sinh – như Chương Đôn và như… ông), ông nhắn người an ủi vợ Đôn đừng lo gì vì khí hậu Lôi Châu tốt. Bức thư trả lời Chương Viện – con trai Chương Đôn – được đánh giá là “đưa ông lên hàng những hiền nhân bậc nhất của nhân loại”. (tr 156)

Tháng Giêng năm 1106, một ngôi sao chổi xuất hiện, ít lâu sau tấm bia đảng Nguyên Hựu bị sét đánh, vua Huy Tôn ra lệnh hủy hết các bia. Từ đó, di cảo Đông Pha càng được quí tụng. Khi các văn nhân hội họp, ai không thuộc thơ Đông Pha thì bị coi là dốt nát. Tống sử bản truyện có mười lăm trang chép đời ông. Vua Hiến Tôn thời Nam Tống tặng ông tên thụy Văn Trung Công.

Xin kết lại bài tóm tắt sách này bằng một câu của tác giả sách này - ông Nguyễn Hiến Lê: Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.

© khuê nguyễn - blogradio.vn

Mời xem thêm chương trình:

9 cách giúp bạn làm chủ cuộc sống của mình | Radio Tâm Sự

khuê nguyễn

Phản hồi của độc giả

Xem thêm

Hành trình tốt hơn 1% mỗi ngày

Hành trình tốt hơn 1% mỗi ngày

Những ngày ấy mình đã tự trách bản thân rất nhiều. Trách mình vì không mạnh mẽ như bao người, vì mình hay suy nghĩ linh tinh, vì mình luôn cảm thấy cô đơn dù cho có đang ở cạnh người khác.

Người bạn cùng bàn năm ấy

Người bạn cùng bàn năm ấy

Không phải là thích, cũng chẳng phải rung động. Chỉ là một chút tò mò xen lẫn cảm giác an tâm khi ngồi cạnh một người giỏi giang và đáng tin. Một điều gì đó rất nhẹ nhàng, rất nhỏ bé nhưng đủ khiến tôi thấy ấm lòng.

Vị khách ghé thăm

Vị khách ghé thăm

Một giọt nước mắt khẽ lăn trên má tôi. Có lẽ, tôi đã hiểu sau khi chia tay, người ta không muốn gặp lại người cũ, bởi vì khi gặp lại, trái tim họ sẽ một lần nữa rung động.

Đánh mất “em” ở tuổi lên mười

Đánh mất “em” ở tuổi lên mười

Mỗi ngày đến lớp, em dần quen với những giờ ra chơi một mình, những bài tập nhóm chỉ còn lại cái tên em bị bỏ sót cuối cùng. Những tiếng cười đùa rộn rã quanh em dần biến thành tiếng vọng xa lạ và em cũng thôi mơ ước có ai đó mỉm cười với mình như ngày đầu mới bước vào lớp học ấy nữa.

Yêu thương gửi bố

Yêu thương gửi bố

Trong lời bố dặn, tôi cảm nhận rõ sự ấm áp, yêu thương biển trời. Không biết từ bao giờ, trái tim tôi đã thôi trách và không còn ghét bố nữa! Thì ra, bấy lâu nay, tôi đã cạn nghĩ, đã trách oan, ghét nhầm bố.

Cánh bướm cuối mùa

Cánh bướm cuối mùa

Anh tập hít sâu, tập nhắm mắt để nghe tiếng gió, nghe tiếng chim ngoài xa. Thậm chí, có lần anh mỉm cười khi thấy một con kiến bò qua tay mình – cái sự sống nhỏ bé ấy khiến anh thấy mình vẫn còn là một phần của thế giới, dù chỉ là tạm.

Mưa Đỏ - chân dung thế hệ thanh niên 2 bên chiến tuyến

Mưa Đỏ - chân dung thế hệ thanh niên 2 bên chiến tuyến

Dù là ai, xuất thân như thế nào, bất cứ thanh niên nào ở bên này chiến tuyến của quân đội nhân dân Việt Nam đều có tư tưởng rõ ràng, có lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, cũng xác định được mục tiêu cũng như biết rõ tại sao mình phải cầm súng và mình chiến đấu cho ai, vì cái gì? Nên họ chiến đấu mạnh mẽ, dám hi sinh và trước cái chết vẫn rất bình thản, động viên đồng đội chiến đấu.

Chốn bình yên…

Chốn bình yên…

Chốn bình yên với mỗi người dù có khác nhau nhưng đều mang đến cảm giác hạnh phúc trong tâm hồn.

Bức thư tình gửi con gái yêu của mẹ

Bức thư tình gửi con gái yêu của mẹ

Rồi những đêm dài mất ngủ sẽ qua, rồi con sẽ lớn khôn, sẽ tự ngủ, tự ăn, tự bước đi trên con đường của con. Những lần được ôm con, thơm má con sẽ dần ít đi, con sẽ trở thành một cô gái độc lập. Mẹ biết, em bé của mẹ cần mẹ, vậy nên mẹ cần mạnh mẽ hơn.

Nơi không bao giờ đóng cửa

Nơi không bao giờ đóng cửa

Người già hay nhớ. Nhớ từng gốc cây, từng bờ rào, từng mái ngói cũ lấm tấm rêu xanh. Nhưng nỗi nhớ của ông Hàn không chỉ là cảnh vật – mà là người, là những âm thanh, là một phần tuổi trẻ đã bị chôn vùi trong im lặng và tổn thương.

back to top